Cấy máu là gì? Các công bố khoa học về Cấy máu

Cấy máu là quá trình chuyển ghép máu từ một người (người hiến máu) sang người khác (người nhận máu). Quá trình này thường được thực hiện đối với các bệnh nhân m...

Cấy máu là quá trình chuyển ghép máu từ một người (người hiến máu) sang người khác (người nhận máu). Quá trình này thường được thực hiện đối với các bệnh nhân mắc phải bệnh lý liên quan đến máu như thiếu máu, ung thư, bệnh máu hiếm, hủy hoại tủy xương... Mục đích của cấy máu là cung cấp cho người nhận máu thành phần máu (như hồng cầu, tế bào trắng, tiểu cầu, huyết sắc tố, chất kháng thể...) từ người hiến máu để khắc phục sự thiếu hụt hoặc bất cập trong hệ thống tuần hoàn máu của người nhận. Quá trình cấy máu phải tuân thủ các quy trình khắt khe để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả cho cả người hiến máu và người nhận máu.
Quá trình cấy máu thông thường bao gồm những bước sau:

1. Đánh giá và chuẩn đoán: Bước đầu tiên là xác định nhu cầu cấy máu của bệnh nhân dựa trên triệu chứng và xét nghiệm. Các bệnh lý như thiếu máu, ung thư, chức năng tủy xương kém, bệnh máu hiếm hoặc tai nạn gây mất máu lớn thông thường đòi hỏi quá trình cấy máu.

2. Tìm nguồn máu phù hợp: Nguồn máu có thể là từ những người hiến máu tình nguyện hoặc từ người nhà bệnh nhân có sự tồng quan với máu (như anh em, cha mẹ, con cái). Quá trình này yêu cầu việc kiểm tra tính phù hợp của người hiến máu, như kiểm tra nhóm máu, Rhesus và các xét nghiệm khác để đảm bảo an toàn trong quá trình cấy máu.

3. Chuẩn bị máu: Máu từ nguồn hiến máu được thu thập thông qua quá trình hiến máu, trong đó máu được trích ra và xử lý. Đối với máu toàn phần, các thành phần máu (hồng cầu, tế bào trắng, tiểu cầu và huyết sắc tố) sẽ được tách rời và truyền cho người nhận máu theo nhu cầu. Nếu người nhận cần một thành phần máu cụ thể, như hồng cầu đóng góp, tiểu cầu hoặc các yếu tố huyết khác, thì chỉ có thành phần máu đó được truyền.

4. Quá trình cấy máu: Máu được truyền cho người nhận thông qua một đường truyền máu. Trong quá trình truyền, máu được giải phóng dần dần, thông qua một kim hoặc ống đặt trong một tĩnh mạch của người nhận. Thời gian cấy máu thường kéo dài từ vài giờ đến nhiều giờ, tuỳ thuộc vào lượng máu cần truyền và tình trạng sức khỏe của người nhận.

5. Theo dõi và chăm sóc sau quá trình cấy máu: Sau khi cấy máu, bệnh nhân được theo dõi để đảm bảo tính phù hợp và phản ứng của hệ thống miễn dịch. Điều này liên quan đến việc kiểm tra huyết áp, tần số tim mạch, nhiệt độ và các chỉ số khác để đảm bảo sự ổn định sau quá trình cấy máu.

Tuy cấy máu giúp khắc phục sự thiếu hụt máu và cung cấp các yếu tố cần thiết cho sức khỏe, nhưng nó cũng tiềm ẩn một số nguy cơ như dị ứng, lây nhiễm hoặc phản ứng tăng áp lực trong các tuyến máu. Do đó, việc cấy máu phải được thực hiện trong một môi trường đủ an toàn, chuyên nghiệp và tuân thủ các quy trình giám sát và bảo vệ sức khỏe của cả người hiến máu và người nhận máu.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cấy máu":

Thống kê Kappa trong Nghiên cứu Độ tin cậy: Sử dụng, Diễn giải và Yêu cầu về Kích thước Mẫu Dịch bởi AI
Physical Therapy - Tập 85 Số 3 - Trang 257-268 - 2005
Tóm tắt

Mục đích. Bài báo này xem xét và minh họa việc sử dụng và diễn giải thống kê kappa trong nghiên cứu cơ xương khớp. Tóm tắt những điểm chính. Độ tin cậy của đánh giá từ các lâm sàng là một yếu tố quan trọng trong các lĩnh vực như chẩn đoán và diễn giải các phát hiện từ kiểm tra. Thường thì những đánh giá này nằm trên một thang đo danh nghĩa hoặc thứ bậc. Đối với những dữ liệu như vậy, hệ số kappa là một thước đo độ tin cậy thích hợp. Kappa được định nghĩa, cả dưới dạng có trọng số và không có trọng số, và việc sử dụng nó được minh họa bằng các ví dụ từ nghiên cứu cơ xương khớp. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến độ lớn của kappa (tần suất, thiên lệch và các đánh giá không độc lập) được thảo luận, và các cách đánh giá độ lớn của kappa thu được cũng được xem xét. Vấn đề kiểm tra thống kê kappa được xem xét, bao gồm việc sử dụng khoảng tin cậy, và kích thước mẫu thích hợp cho các nghiên cứu độ tin cậy sử dụng kappa cũng được trình bày trong bảng. Kết luận. Bài báo kết thúc với các khuyến nghị cho việc sử dụng và diễn giải kappa.

#thống kê Kappa #độ tin cậy #nghiên cứu cơ xương khớp #kích thước mẫu #đánh giá lâm sàng
Dự đoán sức mạnh diệt khuẩn của máu Dịch bởi AI
Epidemiology and Infection - Tập 38 Số 6 - Trang 732-749 - 1938

Tỉ lệ sống sót, p, của một mẫu cấy được đo của Staph. aureus trong một thể tích tiêu chuẩn của máu đã được loại bỏ tiểu cầu, là một thước đo định lượng đáng tin cậy của sức mạnh diệt khuẩn của máu. Số lượng vi sinh vật sống trong mẫu cấy và trong hỗn hợp máu-khuẩn có thể được ước tính với độ chính xác cần thiết bằng cách đếm số lượng thuộc địa phát triển từ các thể tích đo được của chất lỏng được cho lên bề mặt của môi trường rắn. Agar Fildes là môi trường thích hợp nhất cho việc đếm số lượng sống trên bề mặt này, và nó được chọn dựa trên bốn tiêu chí; trong số các môi trường đã thử nghiệm, nó cho số lượng cao nhất, và số lượng này phù hợp nhất với chuỗi Poisson; và trên đó, kích thước thuộc địa trung bình là tối đa, và hệ số biến thiên kích thước thuộc địa là tối thiểu. Trên môi trường này, sự phù hợp chặt chẽ của các giá trị đếm riêng lẻ với chuỗi Poisson cho phép xác định sai số chuẩn của tỉ lệ sống sót từ một sự giản lược của biểu thức tổng quát cho sai số chuẩn của một tỉ lệ.

Số lượng thuộc địa phát triển từ một mẫu hỗn hợp máu-khuẩn có thể bị giảm, không phải do việc tiêu diệt từng vi khuẩn, mà là do sự kết tụ của chúng, hoặc bởi các agglutinin trong máu, hoặc trong bào tương của các bạch cầu có khả năng thực bào nhưng không diệt khuẩn. Có vẻ như những cơ chế này khó có khả năng hoạt động trong hỗn hợp máu-khuẩn có chứa một số lượng vi sinh vật tương đối ít; trong những hỗn hợp như vậy, tỉ lệ sống sót chỉ phản ánh sức mạnh diệt khuẩn.

#Staphylococcus aureus #sức mạnh diệt khuẩn #tỉ lệ sống sót #kháng thể #môi trường nuôi cấy
Phân tích toàn cầu về sự phân hủy và sự phong phú của mRNA trong Escherichia coli ở độ phân giải gen đơn sử dụng vi mạch DNA huỳnh quang hai màu Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 99 Số 15 - Trang 9697-9702 - 2002

Phần lớn thông tin có sẵn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân hủy mRNA trong Escherichia coli, và gián tiếp trong các vi khuẩn khác, đã được thu thập từ việc nghiên cứu chưa đến 25 trong số khoảng 4.300 thông điệp dự đoán của E. coli. Để điều tra các yếu tố này một cách rộng rãi hơn, chúng tôi đã kiểm tra thời gian bán hủy và sự phong phú trạng thái bền vững của các mRNA đã biết và dự đoán của E. coli ở độ phân giải gen đơn bằng cách sử dụng vi mạch DNA huỳnh quang hai màu. Một chiến lược dựa trên rRNA cho việc chuẩn hóa dữ liệu vi mạch đã được phát triển để cho phép định lượng sự phân hủy mRNA sau khi ngừng phiên mã bằng rifampicin. Chúng tôi phát hiện rằng, toàn cầu, thời gian bán hủy của mRNA tương tự nhau trong các môi trường giàu dinh dưỡng và các môi trường xác định mà trong đó thời gian sinh sản được tăng khoảng gấp ba lần. Một phạm vi rộng của độ ổn định đã được quan sát đối với từng mRNA của E. coli, mặc dù khoảng 80% tất cả các mRNA có thời gian bán hủy giữa 3 và 8 phút. Các gen có chức năng chuyển hóa sinh học liên quan thường có độ ổn định tương tự. Trong khi thời gian bán hủy của một số lượng hạn chế các mRNA tương quan tích cực với sự phong phú của chúng, chúng tôi phát hiện rằng nhìn chung, sự ổn định mRNA tăng lên không dự đoán được sự phong phú tăng lên. Cả mật độ của các vị trí cắt ước tính bởi RNase E, mà được cho là khởi động sự phân hủy mRNA trong E. coli, cũng như năng lượng tự do trong cấu trúc của các vùng không dịch mã 5′ hoặc 3′ không dự đoán được thời gian bán hủy mRNA. Kết quả của chúng tôi xác định những đặc điểm trước đây chưa được phát hiện của sự phân hủy mRNA ở mức độ toàn cầu và cũng chỉ ra rằng những tổng quát về sự phân hủy dựa trên việc nghiên cứu các bản sao gen đơn có thể có sự áp dụng hạn chế.

Phương pháp xét nghiệm kháng nguyên Cytomegalovirus (CMV) nhạy hơn so với nuôi cấy trong ống vỏ cho việc phát hiện nhanh CMV trong bạch cầu đa hình nhân trong máu Dịch bởi AI
Journal of Clinical Microbiology - Tập 30 Số 11 - Trang 2822-2825 - 1992

Chúng tôi đã so sánh phương pháp xét nghiệm kháng nguyên Cytomegalovirus (CMV) với nuôi cấy ống vỏ từ các mẫu máu giàu bạch cầu đa hình nhân (PMNL) để chẩn đoán nhanh CMV viremia. Các mẫu PMNL từ 280 mẫu máu của 171 bệnh nhân (170 người nhận ghép tạng rắn và 1 bệnh nhân đang được đánh giá trước ghép) đã được cấy vào ống vỏ và văn hóa CMV truyền thống. Một bộ kit thương mại (kit CMV-vue; INCSTAR Corp.) được sử dụng cho xét nghiệm kháng nguyên CMV, trong đó các mẫu PMNL được nhuộm bằng kháng thể đơn dòng chống lại protein pp65 của CMV. Các mẫu máu từ các trường hợp bệnh tương tự cũng được nuôi cấy song song trong ống vỏ và các văn hóa truyền thống. CMV viremia (được xác định bởi sự phân lập CMV trong các văn hóa truyền thống) đã được phát hiện ở 32 (13%) trong số 245 mẫu PMNL được đưa vào phân tích cuối cùng. Hai mươi tám (87,5%) cũng có kết quả dương tính trong xét nghiệm kháng nguyên CMV, trong khi 22 (69%) có kết quả dương tính trong văn hóa ống vỏ. Mười (4%) mẫu PMNL bổ sung chỉ có kết quả dương tính trong xét nghiệm kháng nguyên CMV đến từ tám bệnh nhân có nhiễm CMV hoạt động (sáu bệnh nhân), những người đã có những lần viremia CMV trước đó hoặc sau đó (bảy bệnh nhân), hoặc trong đó CMV đã được phân lập trong các văn hóa của các mẫu tế bào bạch cầu hỗn hợp được thu thập cùng lúc (ba bệnh nhân). Tổng thể, phương pháp xét nghiệm kháng nguyên CMV nhạy hơn đáng kể so với nuôi cấy ống vỏ trong việc phát hiện CMV trong mẫu bạch cầu máu PMNL (P < 0.01, bài kiểm tra McNemar), và chúng tôi khuyến nghị phương pháp này như là phương pháp lựa chọn cho chẩn đoán nhanh CMV viremia.

#Cytomegalovirus #CMV #xét nghiệm kháng nguyên #viremia #bạch cầu đa hình nhân
Một số nhận xét về tình hình nhiễm khuẩn sơ sinh sớm ở trẻ đủ tháng tại Trung tâm Chăm sóc và Điều trị sơ sinh Bệnh viện Phụ Sản Trung ương
Tạp chí Phụ Sản - Tập 13 Số 2A - Trang 118-121 - 2015
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm dịch tễ học, lâm sàng, cận lâm sàng ở trẻ sơ sinh đủ tháng bị NKSS sớm. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu, mô tả hàng loạt ca sơ sinh đủ tháng mấc NK sớm (<72h sau sinh) tại Bv Phụ sản TW năm 2013-2014. Kết quả: Tỷ lệ trẻ sơ sinh đủ tháng mắc NKSS sớm là 1.7%. Tỷ lệ trẻ trai mắc NKSS sớm là 66.7% cao hơn so với trẻ gái 33.3%. Tỷ lệ mổ đẻ là 71.2%. Các triệu chứng lâm sàng thường gặp là dấu hiệu về hô hấp (73.3% )chủ yếu là tím tái, ngừng thở. Triệu chứng về da (66.7%), và tiêu hóa (62.9%). Triệu chứng cận lâm sàng 70.3% các trường hợp NKSS sớm có CRP (+),55.5 có số lượng BC tăng 40.7% có TC giảm . Liên cầu B là vi khuẩn chiếm ưu thế gây NKSS sớm với tỷ lệ 37%. Không thấy sự khác biệt về các đặc điểm dịch tễ học, triệu chứng lâm sàng , xét nghiệm và yếu tố nguy cơ giữa 2 nhóm NKSS sớm –có bằng chứng về vi khuẩn (cấy máu duong tính) và nhóm NKSS sớm – không tìm thấy bằng chứng về vi khuẩn (cấy máu âm tính).
#nhiễm khuẩn sơ sinh sớm #đủ tháng #cấy máu
Đánh giá hiệu quả sử dụng đất sản xuất nông nghiệp tại xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 2 Số 2 - Trang 603-614 - 2018
Cùng với xu thế phát triển chung của nền kinh tế, ngành nông nghiệp của nước ta mấy năm trở lại đây cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hóa, phát triển tương đối toàn diện. Tuy nhiên, hiện nay diện tích nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp do được chuyển sang các loại hình đất khác như đất ở, đất sản xuất kinh doanh phi nông nghiệp. Do đó, việc đánh giá hiệu quả sử dụng đất nông nghiệp của xã sẽ là căn cứ, cơ sở cho việc đề xuất các giải pháp nhằm phát huy có hiệu quả tiềm năng đất nông nghiệp. Nghiên cứu đã tiến hành điều tra 50 hộ thông qua phương pháp sử dụng các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng đất. Kết quả nghiên cứu cho thấy, Phú Mậu là xã có điều kiện thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp, quỹ đất nông nghiệp còn khá lớn, chất lượng đất tốt. Đất sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn trong đất nông nghiệp. Tổng diện tích đất nông nghiệp là 443,69 ha, chiếm 99,73% tổng diện tích đất nông nghiệp toàn xã Phú Mậu, trong đó: đất trồng cây hàng năm với diện tích lớn nhất là 391,37 ha. Loại hình sử dụng đất trồng hoa cúc mang lại hiệu quả kinh tế cao nhất (GO, VA, VA/IC), thấp nhất là loại hình sử dụng đất trồng lúa. Loại hình sản xuất mang lại hiệu quả xã hội cao nhất là trồng hoa cúc (567,52 nghìn đồng/ngày) và thấp nhất là trồng lúa (195,27 nghìn đồng/ngày). Hiệu quả môi trường cao nhất là loại hình sử dụng đất trồng hoa và thấp nhất là loại hình trồng lúa. Các loại hình sử dụng đất trên địa bàn xã đã góp phần nâng cao thu nhập, xóa đói giảm nghèo cho người dân. ABSTRACT Together with the general development trend of the economy, our country's agriculture sector has basically shifted to commodity production in the last few years and has developed relatively comprehensively. However, in the current reality, the area of agricultural land has been narrowed down to other types of land such as residential land and non-agricultural production land. Therefore, the assessment of the effectiveness of agricultural land use in the commune will be the basis for proposing solutions to effectively promote agricultural land potential. A 50-household survey was conducted using a land use efficiency assessment. Research results show that Phu Mau commune has favorable conditions for agricultural production, agricultural land fund is quite large, good quality of land. Agricultural land accounts for a large proportion of agricultural land. The total area of agricultural land is 443.69 ha, accounting for 99.73% of the total area of agricultural land in Phu Mau commune, of which: The annual land area with the largest area is 391.37 ha. The use of hrysanthemum soil yielded the highest economic returns (GO, VA, VA / IC), the lowest was paddy land use. The highest productivity was the chrysanthemum (567.52 thousand VND/day) and the lowest was rice (195.27 thousand VND/day). The highest environmental impact is the use of chrysanthemum and the lowest is that of rice land. Types of land use in the commune have contributed to raising income, reducing poverty for the people.  
#rice #watermelon #agricultural land #land use efficiency #chrysanthemum #vegetables #cây lúa #dưa hấu #đất sản xuất nông nghiệp #hiệu quả sử dụng đất #hoa cúc #rau màu
Effect of silver nanoparticles on sterilization of different explant sources of Gerbera jamesonii cultured in vitro
Vietnam Journal of Biotechnology - Tập 19 Số 4 - 2021
In this study, silver nanoparticles effects on the sterilization of different sources of explants (young leaves, young flower stalks and young flower buds) of Gerbera as well as on the in vitro morphogenesis and their growth were investigated. The explants were sterilized and cut transversally (1 mm) with the flower stalk, square (0.5 × 0.5 cm) for the leaf sample, longitudinally (0.5 mm) for the flowers (removed the petals) and cultured on MS medium; then, the explants (contamination-free or no browning/necrosis) were transferred into MS medium supplemented with 0.02 mg/L TDZ plus 0.8 mg/L adenine, 10% coconut water, 30 g/L sucrose and 8 g/L agar in 15 days. The results showed that AgNPs at the appropriate concentration and duration treatment was effective in explant sterilization of flower bud (0.02% AgNPs and 20 min), flower stalks (0.02% AgNPs and 30 min) and young leaves (0.05% AgNPs and 20 min) after 15 days of culture. In addition, 3 types of morphogenesis including callus induction, somatic embryogenesis and direct shoot regeneration of explants derived from sterilization by AgNPs were improved as compared to that of HgCl2. In addition, research on the optimal medium for shoot multiplication, rooting as well as evaluation of acclimatization and the growth at the greenhouse were also studied. Results showed that MS medium supplemented with 2 mg/L NAA combined with 0.5 mg/L BA and 2 mg/L KIN is suitable for shoot multiplication; meanwhile, MS medium supplemented with 2 mg/L NAA improved rooting ability as well as quality of plantlets and to improving survival rate and acclimatization of Gerbera cultured in vitro.
#Cây hoa đồng tiền #nano bạc #khử trùng mẫu cấy #vi nhân giống
Xác định điều kiện nuôi cấy tối ưu cho một số chủng nấm Aspergillus sp. phân giải phosphate vô cơ được phân lập trong đất trồng rau màu ở Thừa Thiên Huế
Tạp chí Khoa học và Công nghệ Nông nghiệp - Tập 1 Số 2 - Trang 337-344 - 2017
TÓM TẮTVi sinh vật phân giải phosphate vô vơ sẽ giúp cung cấp một lượng lân dễ tiêu cho cây trồng, cũng như giúp cây hấp thụ các chất dinh dưỡng khác trong đất tốt hơn. Kết quả xác định điều kiện nuôi cấy tối ưu cho ba chủng nấm Aspergillus sp. có khả năng phân giải phosphate vô cơ cao được phân lập trong đất trồng rau màu ở Thừa Thiên Huế cho thấy chủng Aspergillus sp. HX11 có thời gian nuôi cấy là 120 giờ, nhiệt độ 35°C, pH = 7, nguồn carbon rỉ đường, nguồn nitrogen NaNO 3 ;Chủng Aspergillus sp. TV21: Thời gian nuôi cấy là 120 giờ, nhiệt độ 35°C, pH = 7, nguồn carbon rỉ đường hoặc CMC, nguồn nitrogen pepton; Chủng Aspergillus sp. TD21: Thời gian nuôi cấy là 120 -140 giờ, nhiệt độ 30°C, pH = 7,5; nguồn carbon rỉ đường, nguồn nitrogen (NH 4 ) 2 SO 4 . Kết quả của nghiên cứu sẽ góp phần vào việc sản xuất và ứng dụng chế phẩm sinh học bón cho cây rau màu tại địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. ABSTRACTPhosphate-soluble microorganisms provide the amount of soluble phosphorus to the plant as well as help the plant absorb nutrients in the soil better. The studies on optimum cultural conditions for three Aspergillus sp. fungal strains able to soluble high phosphate that isolated in the vegetable soil in Thua Thien Hue province show Aspergillus sp. HX11 grows well with 120-hour-culture-condition, temperature = 35 0 C, pH = 7, the carbon source is molasses, the nitrogen source is NaNO 3 . Aspergillus sp. TV21 grows well with 120-hour-culture-condition, temperature = 35 0 C, pH = 7, the carbon source is molasses or CMC, the nitrogen source is Pepton. Aspergillus sp. TD21 grows well in 120 to 140 hours in the culture condition, temperature = 30 0 C, pH = 7.5; the carbon source is molasses, the nitrogen source is (NH 4 ) 2 SO 4 . The results of the research will contribute to the production and application of biological products for vegetables in Thua Thien Hue province.
#Aspergillus #culture condition #resolution phosphate #điều kiện nuôi cấy #phân giải phosphate
SỰ ĐÁP ỨNG CỦA CÂY BẮP RAU (ZEA MAYS L.) ĐỐI VỚI PHÂN LÂN TRONG ĐIỀU KIỆN NHÀ LƯỚI TRÊN MẪU ĐẤT CHUYÊN CANH RAU MÀU Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 19a - Trang 135-142 - 2011
Trên các vùng chuyên canh rau màu ở đồng bằng sông Cửu Long, phân lân được sử dụng cho cây trồng với liều lượng rất cao. Điều này đã dẫn đến sự gia tăng hàm lượng  lân dễ tiêu trong đất, có thể dẫn đến sự đáp ứng thấp của cây trồng đối với phân lân. Do đó đề tài được thực hiện nhằm đánh giá sự đáp ứng của cây bắp rau với phân lân trên các vùng trồng rau lớn ở Đồng Bằng Sông Cửu Long trong điều kiện nhà lưới. Thí nghiệm được bố trí theo thể thức khối hoàn toàn ngẫu nhiên hai nhân tố có bón lân (90kg Pư2O5ư/ha) và không bón lân trên 40 loại đất có hàm lượng lân dễ tiêu (Bray 1) từ thấp đến cao ở Thốt Nốt ? Cần Thơ (13,10 - 120,30 mgP/kg), Chợ Mới ? An Giang (6,82 - 87,22 mgP/kg), Bình Tân - Vĩnh Long (5,68 - 76,91 mgP/kg), và Châu Thành - Trà Vinh (4,12 - 223,97 mgP/kg). Kết quả thí nghiệm cho thấy nhìn chung đa số đất thí nghiệm có hàm lượng lân dễ tiêu cao, nên việc bón lân không làm tăng chiều cao cây, đường kính thân, sinh khối và năng suất bắp rau, ngoại trừ trên đất ở một số điểm mặc dù có hàm lượng lân trung bình hoặc cao, nhưng có sự đáp ứng của cây trồng đối với phân lân. Do đó thí nghiệm cần được tiếp tục thực hiện để xác định hiệu quả của việc bón lân sau nhiều vụ canh tác, tìm hiểu khả năng cố định và đệm lân trên các đất thí nghiệm làm cơ sở cho việc khuyến cáo bón phân lân hợp lý trên đất trồng rau màu ở đồng bằng sông Cửu Long.
#Bắp rau #phân lân #rau màu #lân dễ tiêu trong đất #đồng bằng sông Cửu Long
SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP BÓN PHÂN ĐẠM THEO BẢNG SO MÀU LÁ TRONG CHẨN ĐOÁN NHU CẦU ĐẠM CỦA CÂY MÍA DỰA TRÊN SINH TRƯỞNG MÍA TRÊN ĐẤT PHÙ SA Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG
Tạp chí Khoa học Đại học cần Thơ - Số 33 - Trang 12-20 - 2014
Mục tiêu của nghiên cứu là xác định lượng đạm và thời gian bón đạm hợp lý cho tối ưu hóa sinh trưởng, năng suất và chất lượng mía. Thí nghiệm thừa số hai nhân tố trong bố trí khối hoàn toàn ngẫu nhiên với ba mức phân đạm và bốn phương pháp bón phân đạm được thực hiện ở huyện Cù Lao Dung và Long Mỹ. Kết quả thí nghiệm cho thấy, bón 300 kg đạm trên hecta theo so màu lá đã cho tối ưu sinh trưởng và năng suất ở Cù Lao Dung và Long Mỹ. Cụ thể, bằng phương pháp bón này đã gia tăng chiều cao, số lóng và chiều dài lóng mía nhưng không làm cải thiện độ Brix của mía ở cả hai địa điểm.
#Bảng so màu lá #năng suất mía #sinh trưởng mía #độ Brix #nhu cầu đạm của cây mía
Tổng số: 155   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 10