Cấy máu là gì? Các công bố khoa học về Cấy máu
Cấy máu là quá trình chuyển ghép máu từ một người (người hiến máu) sang người khác (người nhận máu). Quá trình này thường được thực hiện đối với các bệnh nhân m...
Cấy máu là quá trình chuyển ghép máu từ một người (người hiến máu) sang người khác (người nhận máu). Quá trình này thường được thực hiện đối với các bệnh nhân mắc phải bệnh lý liên quan đến máu như thiếu máu, ung thư, bệnh máu hiếm, hủy hoại tủy xương... Mục đích của cấy máu là cung cấp cho người nhận máu thành phần máu (như hồng cầu, tế bào trắng, tiểu cầu, huyết sắc tố, chất kháng thể...) từ người hiến máu để khắc phục sự thiếu hụt hoặc bất cập trong hệ thống tuần hoàn máu của người nhận. Quá trình cấy máu phải tuân thủ các quy trình khắt khe để đảm bảo sự an toàn và hiệu quả cho cả người hiến máu và người nhận máu.
Quá trình cấy máu thông thường bao gồm những bước sau:
1. Đánh giá và chuẩn đoán: Bước đầu tiên là xác định nhu cầu cấy máu của bệnh nhân dựa trên triệu chứng và xét nghiệm. Các bệnh lý như thiếu máu, ung thư, chức năng tủy xương kém, bệnh máu hiếm hoặc tai nạn gây mất máu lớn thông thường đòi hỏi quá trình cấy máu.
2. Tìm nguồn máu phù hợp: Nguồn máu có thể là từ những người hiến máu tình nguyện hoặc từ người nhà bệnh nhân có sự tồng quan với máu (như anh em, cha mẹ, con cái). Quá trình này yêu cầu việc kiểm tra tính phù hợp của người hiến máu, như kiểm tra nhóm máu, Rhesus và các xét nghiệm khác để đảm bảo an toàn trong quá trình cấy máu.
3. Chuẩn bị máu: Máu từ nguồn hiến máu được thu thập thông qua quá trình hiến máu, trong đó máu được trích ra và xử lý. Đối với máu toàn phần, các thành phần máu (hồng cầu, tế bào trắng, tiểu cầu và huyết sắc tố) sẽ được tách rời và truyền cho người nhận máu theo nhu cầu. Nếu người nhận cần một thành phần máu cụ thể, như hồng cầu đóng góp, tiểu cầu hoặc các yếu tố huyết khác, thì chỉ có thành phần máu đó được truyền.
4. Quá trình cấy máu: Máu được truyền cho người nhận thông qua một đường truyền máu. Trong quá trình truyền, máu được giải phóng dần dần, thông qua một kim hoặc ống đặt trong một tĩnh mạch của người nhận. Thời gian cấy máu thường kéo dài từ vài giờ đến nhiều giờ, tuỳ thuộc vào lượng máu cần truyền và tình trạng sức khỏe của người nhận.
5. Theo dõi và chăm sóc sau quá trình cấy máu: Sau khi cấy máu, bệnh nhân được theo dõi để đảm bảo tính phù hợp và phản ứng của hệ thống miễn dịch. Điều này liên quan đến việc kiểm tra huyết áp, tần số tim mạch, nhiệt độ và các chỉ số khác để đảm bảo sự ổn định sau quá trình cấy máu.
Tuy cấy máu giúp khắc phục sự thiếu hụt máu và cung cấp các yếu tố cần thiết cho sức khỏe, nhưng nó cũng tiềm ẩn một số nguy cơ như dị ứng, lây nhiễm hoặc phản ứng tăng áp lực trong các tuyến máu. Do đó, việc cấy máu phải được thực hiện trong một môi trường đủ an toàn, chuyên nghiệp và tuân thủ các quy trình giám sát và bảo vệ sức khỏe của cả người hiến máu và người nhận máu.
Danh sách công bố khoa học về chủ đề "cấy máu":
Mục đích. Bài báo này xem xét và minh họa việc sử dụng và diễn giải thống kê kappa trong nghiên cứu cơ xương khớp. Tóm tắt những điểm chính. Độ tin cậy của đánh giá từ các lâm sàng là một yếu tố quan trọng trong các lĩnh vực như chẩn đoán và diễn giải các phát hiện từ kiểm tra. Thường thì những đánh giá này nằm trên một thang đo danh nghĩa hoặc thứ bậc. Đối với những dữ liệu như vậy, hệ số kappa là một thước đo độ tin cậy thích hợp. Kappa được định nghĩa, cả dưới dạng có trọng số và không có trọng số, và việc sử dụng nó được minh họa bằng các ví dụ từ nghiên cứu cơ xương khớp. Các yếu tố có thể ảnh hưởng đến độ lớn của kappa (tần suất, thiên lệch và các đánh giá không độc lập) được thảo luận, và các cách đánh giá độ lớn của kappa thu được cũng được xem xét. Vấn đề kiểm tra thống kê kappa được xem xét, bao gồm việc sử dụng khoảng tin cậy, và kích thước mẫu thích hợp cho các nghiên cứu độ tin cậy sử dụng kappa cũng được trình bày trong bảng. Kết luận. Bài báo kết thúc với các khuyến nghị cho việc sử dụng và diễn giải kappa.
Tỉ lệ sống sót,
Số lượng thuộc địa phát triển từ một mẫu hỗn hợp máu-khuẩn có thể bị giảm, không phải do việc tiêu diệt từng vi khuẩn, mà là do sự kết tụ của chúng, hoặc bởi các agglutinin trong máu, hoặc trong bào tương của các bạch cầu có khả năng thực bào nhưng không diệt khuẩn. Có vẻ như những cơ chế này khó có khả năng hoạt động trong hỗn hợp máu-khuẩn có chứa một số lượng vi sinh vật tương đối ít; trong những hỗn hợp như vậy, tỉ lệ sống sót chỉ phản ánh sức mạnh diệt khuẩn.
Phần lớn thông tin có sẵn về các yếu tố ảnh hưởng đến sự phân hủy mRNA trong
Chúng tôi đã so sánh phương pháp xét nghiệm kháng nguyên Cytomegalovirus (CMV) với nuôi cấy ống vỏ từ các mẫu máu giàu bạch cầu đa hình nhân (PMNL) để chẩn đoán nhanh CMV viremia. Các mẫu PMNL từ 280 mẫu máu của 171 bệnh nhân (170 người nhận ghép tạng rắn và 1 bệnh nhân đang được đánh giá trước ghép) đã được cấy vào ống vỏ và văn hóa CMV truyền thống. Một bộ kit thương mại (kit CMV-vue; INCSTAR Corp.) được sử dụng cho xét nghiệm kháng nguyên CMV, trong đó các mẫu PMNL được nhuộm bằng kháng thể đơn dòng chống lại protein pp65 của CMV. Các mẫu máu từ các trường hợp bệnh tương tự cũng được nuôi cấy song song trong ống vỏ và các văn hóa truyền thống. CMV viremia (được xác định bởi sự phân lập CMV trong các văn hóa truyền thống) đã được phát hiện ở 32 (13%) trong số 245 mẫu PMNL được đưa vào phân tích cuối cùng. Hai mươi tám (87,5%) cũng có kết quả dương tính trong xét nghiệm kháng nguyên CMV, trong khi 22 (69%) có kết quả dương tính trong văn hóa ống vỏ. Mười (4%) mẫu PMNL bổ sung chỉ có kết quả dương tính trong xét nghiệm kháng nguyên CMV đến từ tám bệnh nhân có nhiễm CMV hoạt động (sáu bệnh nhân), những người đã có những lần viremia CMV trước đó hoặc sau đó (bảy bệnh nhân), hoặc trong đó CMV đã được phân lập trong các văn hóa của các mẫu tế bào bạch cầu hỗn hợp được thu thập cùng lúc (ba bệnh nhân). Tổng thể, phương pháp xét nghiệm kháng nguyên CMV nhạy hơn đáng kể so với nuôi cấy ống vỏ trong việc phát hiện CMV trong mẫu bạch cầu máu PMNL (P < 0.01, bài kiểm tra McNemar), và chúng tôi khuyến nghị phương pháp này như là phương pháp lựa chọn cho chẩn đoán nhanh CMV viremia.
- 1
- 2
- 3
- 4
- 5
- 6
- 10